Việt Nam Ngựa trong chiến tranh ở Đông Á

Tượng đài danh tướng Trần Nguyên Hãn cưỡi ngựa tung cánh chim

Việt Nam, tài liệu khảo cổ học cho biết rằng, từ thời đại đồ đồng, cách ngày nay hơn 2000 năm, người Việt cổ đã sử dụng ngựa, ăn thịt ngựa mà những tàn tích xương răng còn để lại trong những tầng văn hóa nói rõ, ngựa không phải là loài du nhập vào quá muộn[2] nhưng tại đây, con ngựa không quan trọng bằng con trâu, con lợn và cũng hiếm có, ngựa không phải là một con vật bản địa nên chúng ít thấy ngoài những con ngựa ở trường đua và mấy con ngựa còm, đầu có một túm lông gà uể oải kéo xe thổ mộ.

Những con ngựa phục vụ cho chiến tranh chủ yếu là ngựa nội phân bố rải rác khắp cả nước như ngựa Bắc Hà, ngựa Phú Yên, ngựa Đà Lạt, ngựa cỏ miền Nam. Chúng thuộc nhóm ngựa giống lùn, có tầm vóc thấp bé, chủ yếu sử dụng vào việc thồ, kéo phù hợp với địa hình hiểm trở, thích nghi với khí hậu, chống chịu được bệnh tật, chịu kham khổ. Ngựa chiến chủ yếu phục vụ cho các vị tướng chứ không phổ biến trong binh lính. Những danh tướng Việt Nam khi cưỡi ngựa tung hoành chiến địa không hề thua kém các tướng tá phương Bắc.

Ngay từ thời xa xưa, người Việt đã ý thức được vai trò, sức mạnh của con ngựa trong chiến tranh. Những chiến thắng lớn trong lịch sử nước Việt đều do thủy quân, tượng binh, bộ binh chứ kỵ binh không phải là binh chủng chủ lực. Thế nhưng lịch sử vẫn lưu lại những sự kiện về những con ngựa quý với những bài học thành bại mang ý nghĩa biểu tượng của ngàn đời. Các triều đại phong kiến Việt Nam đã ý thức rõ sức mạnh và tầm quan trọng của ngựa nên đặt ra cơ quan để chăm sóc, nuôi dưỡng và huấn luyện đó là Viện Mã chính. Người xưa đã phân định rất rõ ràng vai trò trách nhiệm cho các viên quản mục, viên biền cai quản từng loại ngựa, đặt ra chức y sinh để coi sóc, điều trị bệnh cho ngựa, giúp ngựa lúc sinh nở như các thú y sĩ chuyên trách về ngựa bây giờ.

Truyền thuyết

Tượng Thánh Gióng cưỡi ngựa

Trong kho tàng di sản vật thể và phi vật thể của người Việt, ngựa là một trong những con vật mang nhiều giá trị thực dụng, nhất là trong trận mạc, nhưng cũng là một con vật thiêng mang nhiều dáng vẻ khác nhau, dễ tạo hình, đẹp và ấn tượng[3] Trong truyền thuyết ở Việt Nam về ngựa có từ sớm, con ngựa đầu tiên được nhắc đến với tư cách là một lễ vật của Sơn Tinh dâng cho vua Hùng là con ngựa chín hồng mao (voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao). ở nước ta, con ngựa tham gia chiến trận được biết đến đầu tiên là con ngựa sắt, xuất hiện trong truyền thuyết Phù Đổng Thiên Vương. Sau khi đánh tan giặc Ân, ngài Thánh Gióng đã cưỡi ngựa sắt phi về trời. Truyền thuyết còn nói tới An Dương Vương cùng con gái Mỵ Châu vì "Nỏ thần vô ý trao tay giặc, nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu" mà leo lên mình ngựa chạy giặc Triệu Đà.

Lịch sử Việt Nam cũng nói đến con ngựa sắt thần kỳ của Phù Đổng Thiên Vương con ngựa này được bọc sắt, cao lớn có khẳ năng phi nhanh, khạc lửa và có thể bay lên trời. Con ngựa sắt đó được nêu là "Ngài về tâu với đức vua đúc cho con ngựa sắt, roi sắt, áo giáp sắt và chiếc nón sắt mang đến cho ta để ta đi đánh giặc Ân". Ngựa sắt, nón sắt và giáp sắt, đã rèn xong. Guóng nhảy lên lưng ngựa, Ngựa hí một tiếng dài, thét ra lửa, lao vút ra trận. Phá xong quân Ân, Gióng phi ngựa đến chân núi Sóc Sơn, ghìm cương, cởi giáp và nón treo lên một cành cây, sau đó cả người lẫn ngựa bay thẳng lên trời.

Huyền thoại về con ngựa sắt của Phù Đổng Thiên Vương là câu chuyện mang ý nghĩa sâu xa về tinh thần yêu nước, ý chí gìn giữ độc lập của một dân tộc. Hình tượng cậu bé cưỡi ngựa sắt, cầm roi sắt phá giặc Ân là sức mạnh động viên cho chính nghĩa, là lòng tin cho sức mạnh giữ nước. Truyền thuyết ấy không đặt ở sức mạnh siêu nhiên, không hướng người ta vào những quyền phép phi thực mà đề cao sức mạnh của dân tộc, người anh hùng trẻ tuổi sinh ra trong lòng dân tộc, lớn lên nhờ những nồi cơm của dân làng. Con ngựa sắt của cậu bé làng Gióng chỉ do người dân Việt làm ra từ nguyên liệu bình thường sẵn có. Con ngựa cũng không có phép thần thông chỉ chạy được, phun ra lửa và cùng người đánh giặc. Khi giặc tan, người ngựa cùng bay về trời.

Thời Lý

Bài chi tiết: Quân sự nhà Lý
Tượng danh tướng Lý Thường Kiệt cưỡi con chiến mã Song Vĩ Hồng tại Đại Nam Quốc tự thuộc Khu du lịch Đại Nam

Sử sách nhiều lần ghi lại quân dân Đại Việt đã thu được nhiều ngựa chiến trong các lần bảo vệ biên giới. Dưới thời Vua Lý, vào năm Giáp Dần, tức niên hiệu Thuận Thiên thứ năm (1014), tướng của người Man bên kia biên giới là Dương Trường Huệ và Đoàn Kính Chí đem 20 vạn người vào cướp vùng giáp biên nước ta. Châu mục châu Bình Lâm (nay là vùng Tuyên Quang) là Hoàng Ân Vinh tâu lên, Vua Lý Thái Tổ sai Dực Thánh Vương đem quân đi đánh, chém đầu hàng vạn tên giặc, bắt sống nhiều ngựa không kể xiết. Vào thời điểm này, nước ta đang muốn hòa hoãn với nhà Tống, bèn đem 100 con ngựa chiến lợi phẩm của người Man vùng giáp biên giới, sang biếu nhà Tống. Trong chiến tranh với nhà Tống, quân tống đem theo 1 vạn ngựa chiến thì sau cuộc chiến chỉ còn lại 3.174 con.

Bên cạnh việc đánh trận, ngựa còn là món quà quý báu để ngoại giao giữa các tù trưởng với triều đình Đại Việt thời Lý. Châu Vị Long (nay là huyện Chiêm Hóa, Tuyên Quang) dâng ngựa trắng. Sử cũ cũng cho biết, trước đó, các triều vua Lý cũng nhận cống vật là ngựa trắng của Chiêm Thành. Có những khi triều đình Đại Việt lại ngoại giao biếu xén với phương Bắc bằng những con ngựa trắng để giữ hòa hiếu. Xe ngựa biểu hiện của sự quý phái là một trong 9 thứ vua ban (Cửu tích). Ngựa cũng là phương tiện biểu thị lễ nghi. Năm Mậu Thân (1128), vì trong nước có quốc tang nên vua cấm người trong nước cưỡi ngựa trong dịp này. Nhiều nơi trọng yếu trong kinh đô như các cửa Hoàng Thành, Đại Hưng (Cửa Nam ngày nay) còn có tấm bia ghi rõ chữ "Hạ Mã" để ai qua đó cũng phải xuống ngựa.

Nỗ lực xây dựng lực lượng kỵ binh được ghi chép sớm nhất trong sử sách Việt Nam là dưới triều nhà Lý. Năm 1170, nhà vua cho xây Xạ đình (trường bắn) ở Nam Hoàng Thành. Ngoài học kinh vở, binh pháp, 1 nội dung bắt buộc trong hệ thống giáo dục cho con em quý tộc thời Lý là luyện tập cưỡi ngựa bắn cung. Tập tục này trở thành chuẩn mực cho các triều đại về sau. Trong các kỳ thi tiến sĩ võ, ban võ nghệ đầu tiên được thao diễn bao giờ cũng là cưỡi ngựa. Ngựa trong chiến tranh với Chiêm Thành cũng đắc dụng khi vết chân ngựa của Lý Trần Lê vào tận kinh thành Phật Thệ, đặc biệt, con ngựa Song Vỹ Hồng của Lý Thường Kiệt là con thần mã lẫy lừng trong lịch sử Đại Việt, từng ruổi rong thiên lý chạm chân đến đế đô Vijaya.

Thời Trần

Bài chi tiết: Quân đội nhà Trần
Phục dựng thiết kỵ thời nhà Trần, dựa vào hiện vật mũ sắt và khiênKhắc gỗ thời Trần tk 13: tập võ, bảo tàng lịch sử thành phố Hồ Chí Minh. Kỵ binh đâm thương bằng cả hai tay thay vì kẹp thương dưới nách như kỵ sĩ châu Âu

Dưới thời nhà Trần, lực lượng kỵ binh được chú trọng xây dựng bên cạnh các binh chủng khác để đáp ứng cho yêu cầu chống lại sự xâm lượng của quân Nguyên-Mông và chiến tranh biên giới phía Nam với Chiêm Thành. Cho đến nay, hình tượng ngựa sớm nhất được biết, đó là trên một chiếc thạp gốm hoa nâu, thế kỷ 14. Nghệ nhân trang trí một người đội mũ quan cưỡi ngựa, với dáng vẻ khoan thai nhưng hùng dũng, mà đằng sau có một kẻ theo hầu cùng một người đeo vác và một người gánh lương thực. Đi trước là người dắt ngựa với vẻ khúm núm, kính cẩn trong tâm thế của một đầy tớ trung thành.

Trong chiến tranh với Mông Cổ, bên cạnh voi và thuyền thì ngựa cũng được sử dụng rộng rãi, đặc biệt là danh cho các viên tướng. Sử cũ còn chép lại viên tướng Lê Phụ Trần trong một trận kịch chiến đã một mình một ngựa lao vào trận địa kỵ binh của quân Mông Cổ và sắc mặt vẫn thản nhiên như không, hay sau đó Vũ Vương Hiến (Trần Quốc Hiến) dùng kỵ binh truy kích và bắn chết tướng A Bát Xích của Mông Cổ. Trong trận chiến này sức mạnh tưởng như vô địch lại bị chặn đứng bởi những quốc gia nhỏ bé vùng Đông Nam Á là Đại Việt, xuyên qua vai trò giống ngựa và cây cung của những bộ tộc du mục để đưa ra cái tương phản của khung cảnh thế giới vào thời đại Nguyên–Mông, cái ưu thắng của người biết vận dụng phương tiện chiến tranh vào việc chinh phục những khu vực khác, đồng thời cũng nhắc đến sự diệu dụng của một dân tộc còn rất sơ khai đã đem cái “đoản” của mình để chống với cái “trường” của địch. Đặc biệt là cách đánh khôn khéo với chiến thuật tập kích khi đối phương "người tách khỏi ngựa" (đánh vào những lúc nghỉ ngơi, hạ trại, lúc đêm đến).

Đoàn quân Mông Cổ ba lần đưa quân xuống phương Nam xâm lược Đại Việt thì gặp thất bại, một phần do địa hình ở đây không thuận lợi để phát huy sở trường tác chiến của kỵ binh vốn dùng để đánh chính diện và vu hồi trên chiến trường bình nguyên rộng rãi. Quân kỵ binh gốc Mông Cổ thiện chiến thì lại không phát huy được sở trường do chiến lược của Đại Việt là chọn đánh quân Nguyên ở những vùng bến sông hoặc rừng rậm, tránh giao chiến ở vùng bằng phẳng. Ở Việt Nam, voi chiến đã thể hiện ưu thế khi đối đầu với kỵ binh Mông Cổ và những đạo quân khác. Quân Đại Việt cũng có ưu thế về thủy binh và áp đảo quân Nguyên Mông trên mặt trận thủy chiến.

Trong giai đoạn này, số lượng ngựa của quân Nguyên Mông đặt chân lên đại Việt là khá lớn, trong chiến dịch đầu tiên có ít nhất 3 vạ kỵ binh Mông Cổ nhưng khi thâm nhập đất Tống, đoàn quân này còn 3000 kị binh Mông Cổ. Trong trận chiến lần hai và thứ ba, không có thống kê cụ thể về số lượng ngựa chết nhưng được phỏng đoán là rất lớn vì đạo quân Nguyên Mông đông đảo lần này bị thiệt hại nặng nề.

Quân Nguyên Mông ba lần vào xâm chiếm Việt Nam đem theo hàng vạn con ngựa chiến từ thảo nguyên Mông Cổ, Vân Nam, Kinh Bắc, Tân Cương. Khi thất trận tháo chạy thì trong số chiến mã này, ngoài số lượng bị giết tại trận, một số thì bị bắt, một số bị lạc trong rừng, trở nên một loài ngựa hoang lai giống với các loài ngựa bản địa sinh ra loài ngựa mới. Sau này, Lê Quý Ðôn đã từng viết trong quyển Vân Ðài Loại Ngữ: “Nước ta, tỉnh Tuyên Quang và Cao Bằng đều sẵn nhiều ngựa".

Việt sử còn đề cập đến chuyện con ngựa đá thời nhà Trần. Trong lúc làm lễ ở chùa Lăng sau khi đánh bại quân Mông Cổ, vua Trần Nhân Tông liền cảm khái hai câu thơ bằng chữ Hán: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã/Sơn hà thiên cổ điện Kim âu/Xã tắc hai phen chồn ngựa đá/Non sông nghìn thuở vững âu vàng. Sau này vị vua Trần Duệ Tông cũng nổi danh là ông vua trên lưng ngựa và chết tại sa trường. Sử sách còn ghi lại con Nê Thông của Hoàng đế Trần Duệ Tông là con thần mã lẫy lừng trong lịch sử Đại Việt từng đưa vị vua này chiến đấu và tử trận trên đất Chiêm Thành. Triều Trần cũng từng nhận ngựa Java, tức Indonesia bây giờ là các cống phẩm giá trị[4]

Thời Lê

Tái hiện trận Chi Lăng của nghĩa quân Lam Sơn, trong đó có sự tham gia của kỵ binh và tượng binh

Trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của Lê Lợi, hình ảnh của ngựa lại được nhắc đến với chuyện Lê Lai cứu chúa. Năm 1418, khi mới khởi nghĩa, thế quân Minh đang mạnh, trong một trận bao vây Lê Lai đổi áo cho Lê Lợi, sau đó cưỡi ngựa phi vào trận địa quân giặc xưng là "Chúa Lam Sơn" và bị giết. Năm Canh Tý (1420), quân Minh kéo đến vây hãm rất đông, bị nghĩa quân phục kích, chém đầu giặc khá nhiều và bắt được hơn trăm con ngựa. Năm Nhâm Dần (1422), nghĩa quân bị vây hãm bốn mặt ở núi Chí Linh, thiếu lương thực, chỉ ăn măng, rau, củ. Khi đó, Lê Lợi đã thịt cả con ngựa mình đang cưỡi cho quân lính ăn thịt ngựa.

Năm Giáp Thìn (1424) có một trận đánh thắng lớn là trận Trà Lân, chém được nghìn đầu giặc Phương Chính, bắt được hơn trăm con ngựa. Sau đó, Lê Lợi đã chỉnh đốn ngựa, voi và quân lính chuẩn bị đánh tiếp. Năm Bính Ngọ (1426), Lê Lợi lại bắt được 500 ngựa chiến trong trận vây hãm thành Đông Đô (Hà Nội ngày nay). Sau đó, nhà Minh đem 5 vạn quân và 1.000 ngựa để ồ ạt cứu viện, lại bị chém chết 3.000 tên, thu 500 ngựa trong trận Pha Lũy. Tiếp đó, tướng Liễu Thăng, Mộc Thạch đem 20 vạn quân và 3 vạn ngựa chiến xâm lược, lại bị thua trận ở ải Chi Lăng, Liễu Thăng bị chém đầu, quân Lê bắt được hơn 5.000 ngựa chiến.

Kỵ xạ thế kỷ 17, chạm gỗ cảnh săn hổ- đình Hạ Hiệp-Hà Tây

Ngày xưa các triều đại đã đặt ra Viện Tượng Chính và Mã Chính là hai cơ quan chăm sóc, huấn luyện voi, ngựa; thời Lê đặt hai Giám ti Ngự Tượng và Ngự Mã. Năm 1509, vua Lê Uy Mục cho đặt hai chức quan là Giám ti Ngự Tượng và Ngự mã. Thời Lê Thánh Tông, trong 66 Ty ở Kinh đô, có 7 Ty cung nỏ, trong đó có Ty Kỵ Xạ, Ty Du Nỗ, Tráng Nỗ, Kính Nỗ, Thần Tý. Trong 51 Vệ ở kinh đô, có Vệ Kỵ Xạ chia làm 5 sở, lại có 4 vệ Mã Bế[5] Khi hỏa khí xuất hiện, kỵ xạ cũng dần dần mai một bởi hỏa khí dễ sử dụng, dễ chế tạo và có sức công phá vượt trội. Lê Quý Đôn ghi lại rằng nhà Lê Trung Hưng từ năm 1724 trở về sau vẫn còn có môn cưỡi ngựa bắn cung trong thi Bác Cử[6] Nhưng trong Thượng Kinh Phong Vật Chí, ông cho biết thời đại ông người ta đã bãi bỏ cưỡi ngựa bắn cung, và thay bằng nội dung cưỡi ngựa bắn súng trong khoa cử.[7]

Trong các trận đánh thời Lê Mạc, sử sách ghi khá nhiều lần các tướng cưỡi ngựa chỉ huy quân sĩ xông vào trận đánh, chứng tỏ vào thời điểm này, ngựa chiến khá lợi hại, chỉ vua và tướng mới được cưỡi. Bên cạnh ngựa, voi cũng là một con vật được dùng để đánh trận, vì thế, trong các cuộc chiến thường có ngựa và voi ra trận cùng nhau. Có giai đoạn trong trận mạc, ngựa được mặc áo giáp sắt. Sử cũ còn ghi lại Tiết chế Trịnh Tùng đã đem 5.000 quân tinh nhuệ, voi khỏe và ngựa bọc sắt vào góc Tây Bắc thành Thăng Long để đánh Mạc Mậu Hợp. Trịnh Tùng từng sử dụng 400 quân thiết kỵ làm trợ chiến để đẩy lùi cuộc xâm lấn của quân Bắc triều. Năm 1592 ông huy động tới 5000 kỵ binh nặng, trang bị giáp sắt cho cả ngựa để vây hãm Đông Kinh của nhà Mạc.[8] Trong Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ tục biên ghi nhận thời Nam Bắc triều, quân Trịnh theo phò nhà Lê có lực lượng kỵ binh khá mạnh.

William Dampier, một nhà du hành từng đến Đàng Ngoài năm 1688 có ghi nhận là quân đội chúa Trịnh có chừng 70.000-80.000 quân thường trực, trong số đó hầu hết là bộ binh trang bị súng tay, ở kinh thành chúa có thường trực voi chiến 200 thớt, ngựa chiến 300 con, nuôi béo khỏe. Ngựa trung bình cao 140 cm đến vai, kích cỡ tương đương các nòi ngựa để cưỡi hiện đại[9] Một ghi chép của người phương Tây về lực lượng quân sự Đàng Ngoài dưới thời Thanh Đô Trịnh Tráng cho rằng vào năm 1640 nhà chúa có dưới trướng hơn ba mươi vạn bộ binh, hai ngàn thớt voi trận và một trăm lẻ hai ngàn quân kỵ[10] con số này đáng nghi vấn. Tuy nhiên ghi chép này cũng cho người đời sau thấy được ấn tượng của những người ngoại quốc về 1 quân đội Đại Việt hùng cường toàn diện, từ thủy binh, bộ binh đến kỵ, tượng binh.

Tây Sơn

Bài chi tiết: Nghĩa quân Tây Sơn

Nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân luôn gắn với việc sử dụng ngựa chiến, như khởi nghĩa Tây Sơn. Khi có giặc đến, cũng như người nông dân thay áo nâu bằng áo trận, ngựa thồ được huấn luyện thành ngựa chiến[11]. Năm 1964 trên báo Hòa Đồng xuất bản ở Sài Gòn ông Hồ Hữu Tường nói rằng lúc trước quân Tây Sơn có những đoàn “sảo mã” đặc biệt tinh nhuệ, giữ việc thông tin liên lạc, số ngựa trong đoàn sảo mã này phần lớn chọn từ Phú Yên. Nguyễn Nhạc sau khi lên ngôi, sứ giả nước Anh là Chapman tới yết kiến, Nguyễn Nhạc đặt vấn đề có ngay một con ngựa Ăng Lê. Ông đặc biệt muốn có ngựa ngoại với bất cứ giá nào và ông đã nhờ Chapman chuyển thư cho Toàn quyền Bengale yêu cầu một con ngựa nâu sẫm với đôi tai nhỏ và đẹp, dựng đứng lên trong chuyến tàu sớm nhất cập vương quốc của mình qua cảng Thi Nại[4].

Tây Sơn ngũ thần mã, vó ngựa tung trời Triều đại Tây Sơn tuy tồn tại trong khoảng thời gian ngắn ngủi nhưng đã để lại những dấu ấn hào hùng, người ta còn ấn tượng mạnh mẽ với Tây Sơn ngũ thần mã. Ngồi trên lưng của những chiến mã này, các tướng sĩ Tây Sơn đã lập nên bao thắng lợi vang lừng, trong số này thì có ít nhất ba con thần mã là giống ngoại quốc (hãn huyết mã). Tây Sơn ngũ thần mã uy dũng xuất chúng mà còn là những con vật trung thành. Chúng đều được vinh danh trong cuốn Tây Sơn nhân vật chí của Đinh Sĩ An, sau khi nhà Tây Sơn diệt vong, chúng vẫn được người Bình Định tưởng nhớ và tôn thờ như linh thú.

Thời Nguyễn

Tranh vẽ các binh chủng thời Nguyễn, trong đó có kỵ binh (lính thượng tứ)

Vào thời nhà Nguyễn, lực lượng ngựa chiến rất được chú trọng củng cố và phát triển. Kinh thành Huế là nơi đã diễn ra nhiều cuộc thao diễn trận ngựa có quy mô hoành tráng, với sự tham gia của hàng trăm đầu ngựa. Bản thân các vua chúa nhà Nguyễn cũng sở hữu nhiều con chiến mã xuất sắc. Ngoài việc tham gia trận mạc, ngựa còn là phương tiện để đưa tin, có những "ngựa trạm" để chuyên làm việc này, nhất là trong thời Nguyễn. Để duy trì liên lạc, nhà Nguyễn đã thiết lập một hệ thống trạm ngựa từ Cà Mau cho đến ải Nam Quan phiên thuộc Ty Bưu chính.

Ngựa, voi là vật quý được triều đình chăm sóc[12] Trong “Khâm Định Đại Nam Hội Điển Sự Lệ” của Quốc Sử Quán triều Nguyễn đã dành riêng quyển 175 để quy định về vấn đề Mã chính; bao gồm ngạch ngựa, chăn nuôi ngựa, kén chọn ngựa, khám nghiệm ngựa, diễn ngựa, trang sức cho ngựa, thời Nguyễn có quy chế cụ thể về Mã chính bao gồm ngạch ngựa, chăn nuôi ngựa, kén chọn ngựa, diễn ngựa, trang sức cho ngựa, có cả y sinh chữa bệnh cho ngựa. Và người ta đã phân biệt đẳng cấp ngựa dành cho vua, cho tướng, các loại ngựa chiến, ngựa thồ[4]. Về ngựa chiến, theo tiêu chuẩn xưa đó phải là giống ngựa quý, thuần chủng, có 4 nước đại và 3 đợt nhảy cao, 9 đức tính tốt. Những ngựa chiến giỏi gồm: ngựa Thố (Thỏ), ngựa Câu (Ngựa Tơ), ngựa Kỳ (hay), ngựa Ký (Bền), ngựa Đề (Móng Thú), ngựa Tuấn (Đẹp), ngựa Lạc (Vui), ngựa Bảo (Quí), ngựa Phiêu (Béo).

Ngựa nuôi ở kinh thành thì thuộc vào viện Thượng Tứ, ở nhà trạm men đường ngoài các tỉnh thuộc các thành, trấn, đạo sở tại. Ngựa để dùng trong thông tin liên lạc khác với ngựa trong việc vận chuyển kéo xe, lại càng khác xa với ngựa chiến. Người xưa đã phân định rất rõ ràng vai trò trách nhiệm cho các viên quản mục, viên biền cai quản từng loại ngựa, đặt ra chức y sinh để coi sóc, điều trị bệnh cho ngựa, giúp ngựa lúc sinh nở như các thú y sĩ chuyên trách về ngựa bây giờ. Ngựa Phú Yên được triều đình nhà Nguyễn xếp vào loại ngựa dụng. Vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức thích dùng ngựa Phú Yên và giao cho quan lại Phú Yên tuyển chọn, chăm sóc những con ngựa quý để đưa về Kinh, họ giao cho Phú Yên phải mua ngựa nộp và cắt cử người về kinh hướng dẫn việc nuôi ngựa. Việc các quan Phú Yên tiến dâng ngựa tốt được ghi vào sách Thực lục.

Tàu ngựa của vua Minh Mạng có những con ngựa quý, được nhắc đến trong sử nhà Nguyễn với những cái tên như Phúc Thông, Cát Thông, An Tường Ký, Thần Lương, Phúc Lưu, Cát Lưu, Thiên Mã. Trong số đó, Vua Minh Mạng đã nhận xét về con An Tường Ký như sau: “con ngựa trắng, dù không là giống ngựa tuyệt trần chạy bay như mây, nhưng trẫm cưỡi thấy được yên ổn nên goi nó là An Tường Ký"[12]. Trong tàu ngựa Minh Mạng, lại có con Thiên Mã thuộc giống ngựa Trung Đông thuần chủng Ả Rập[4]. Thiên Mã là con ngựa từ nước Tây Vực (Apganistan hiện nay) được nhập vào trong tàu ngựa của Hoàng đế năm 1830. Vua Minh Mạng đã ban du phong chức cho con Thiên Mã như sau: "Ta đã sai dong yên ngồi cưỡi, chạy nhanh như chớp gió, thật vượt mức trong các loài ngựa có bốn nước đại và ba đợt nhảy cao, lại cao siêu hơn loài ngựa có chín đức tính tốt và tám thứ ngựa giỏi, nên ban cho tên đẹp để tỏ cái đức con ngựa quý, nay gọi trên là Đại Uyển Long Tuấn".